LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2024): CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TỎA SÁNG TRONG TÂM HỒN VIỆT NAM VÀ NHÂN LOẠI TIẾN BỘ

(LHH-TP.HCM) – Kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ thành kính bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc Người anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới – Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – Người bạn lớn, thân thiết của các dân tộc yêu chuộng hòa bình và nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng “đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”, Hồ Chí Minh đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Khi đi xa, Người “không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Đồng thời, Người để lại cho Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại tiến bộ Di sản tinh thần vô giá, thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả – tất cả vì con người và giải phóng con người.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị cao đẹp của chủ nghĩa nhân đạo với tinh hoa văn hóa Đông – Tây mà cội nguồn của nó là giá trị truyền thống nhân ái Việt Nam. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn ấy là sự tôn vinh giá trị con người, tình yêu thương con người hòa quyện với lòng yêu nước nồng nàn và thương dân sâu sắc. Mục tiêu cao đẹp của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ra khỏi mọi sự bóc lột, áp bức, bất công để đạt tới một xã hội tốt đẹp “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”.

Sinh ra ở vùng quê vốn giàu lòng yêu nước và hiếu học, được nuôi dưỡng bởi một dân tộc có truyền thống hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, có nền văn hiến lâu đời với khát vọng hòa bình, độc lập, tự do; song lại phải sống dưới ách đô hộ tàn bạo của thực dân Pháp. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận ra nỗi nhục của kiếp đời nô lệ, nỗi đau của người dân mất nước. Vì vậy, Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước để “đuổi thực dân, giải phóng đồng bào”. Ý chí đó ngày càng lớn lên ở Người và trở thành “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Xuất thân trong gia đình nhà Nho yêu nước, Hồ Chí Minh đã sớm đến với tư tưởng “Nhân – Trí – Dũng” của Nho giáo. Hiểu giáo lý đạo Phật với tư tưởng “Từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha” và ước mơ cứu vớt chúng sinh của Chúa Giêsu, cùng với ý tưởng về nhà nước pháp quyền của Môngtexkiơ và “Khế ước xã hội” của Rútxô…. Tất cả những cái đó, theo Hồ Chí Minh chỉ được coi là hữu ích khi chúng được sử dụng để đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ra khỏi mọi khiếp đời nô lệ.

Suốt 30 năm tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã hiểu rõ những giá trị đích thực của văn hóa phương Tây với tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái; đồng thời, Người cũng sớm nhận ra những hạn chế của quyền con người trong chủ nghĩa tư bản và chỉ ra rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc….”.

Như vậy, từ giá trị nhân văn trong văn hóa Đông – Tây và giá trị truyền thống nhân ái Việt Nam, với trí tuệ mẫn tiệp và lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hóa của chủ nghĩa nhân văn mácxít để sáng tạo ra hệ giá trị nhân văn cách mạng đặc sắc Việt Nam – Tất cả vì con người và giải phóng con người.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, con người không thể mưu cầu tự do, hạnh phúc cho mình bằng lối sống “thụ động, lánh đời”, “há miệng chờ sung”, hay chỉ bằng những khái niệm trừu tượng, những lời hoa mỹ về ước mơ, tự do, hạnh phúc; mà phải bắt tay vào hành động thực tiễn “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”; và rằng, chỉ có hoạt động thực tiễn cách mạng, con người mới cải tạo được thế giới, đồng thời cải tạo chính mình; và do đó, mới xây dựng được cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no và hạnh phúc.

Biến tư tưởng nhân văn thành hành động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc – kỷ nguyên phát triển “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chính phủ phải hoạt động dựa trên nguyên tắc “cái gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Đồng thời thực hiện ngay 4 nhiệm vụ cấp bách: “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành”.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động của khát vọng hòa bình Việt Nam, khi chúng ta đã tận dụng tối đa mọi điều kiện và cơ hội, làm hết sức mình (kể cả nhượng bộ…) để tránh cuộc chiến tranh cho hai dân tộc Việt – Pháp; nhưng từ bản chất tàn bạo và hiếu chiến, thực dân Pháp đã xâm lược nước ta một lần nữa và buộc chúng ta phải cầm súng để bảo vệ Tổ quốc, thì chúng ta quyết không sợ, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với ý chí đó, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta, lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và nền hòa bình trên đất nước ta.

Điều đặc biệt và nổi bật trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh có sự thống nhất lý luận với thực tiễn, tư tưởng với hành động: tất cả vì con người, vì dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Ngay khi đất nước có chiến tranh, Hồ Chí Minh đã kiên quyết thực hiện đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” để bồi dưỡng sức dân, tăng cường nội lực của dân tộc. Trong quan hệ quốc tế, Người phân biệt rõ: nhân loại tiến bộ với bọn thực dân đế quốc; nhân dân tiến bộ Mỹ (là bạn của nhân dân Việt Nam) với các thế lực đế quốc hiếu chiến Mỹ (là kẻ thù của nhân dân Việt Nam). Vì vậy, mặc dù có chiến tranh, nhưng Người vẫn thường gửi thư thăm hỏi và chúc mừng nhân dân Mỹ nhân dịp năm mới: “Nhân dân Việt Nam rất quý trọng tình hữu nghị với nhân dân Mỹ vĩ đại đang tiếp tục truyền thống của Hoa Thịnh Đốm và Lin Côn đấu tranh cho độc lập dân tộc và dân chủ”. Đồng thời, Người thông cảm sâu sắc và chia sẻ với những mất mát mà các gia đình Mỹ phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh do chính quyền Mỹ gây ra ở Việt Nam.

Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ, nhân đạo, nhân ái, khoan dung và văn minh, tiến bộ dành cho dân tộc Việt Nam và loài người tiến bộ. Vì vậy, khi “nước mất, nhà tan”, Người đã “Dám” chấp nhận cuộc sống xa quê hương với muôn vàn gian khổ, hiểm nguy, đi khắp năm châu bốn biển để tìm con đường đi cho cả dân tộc. Và, suốt cả cuộc đời, Người đã đấu tranh không mệt mỏi và dâng hiến tất cả những gì tốt đẹp nhất, nhân văn nhất cho đồng chí, đồng bào và loài người tiến bộ. Khi đi xa, Người đã không quên căn dặn Đảng ta phải có kế hoạch thật tốt để chăm lo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Đặc biệt là, Hồ Chí Minh đã để lại toàn bộ Di sản tinh thần vô giá và “muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Bác Hồ là “muôn vàn tình thương yêu”, đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai, và sắp xếp cho mỗi người vị trí chiến đấu cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt”.

Dành cả cuộc đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và nhân loại tiến bộ; dành cả tuổi thanh xuân (hy sinh hạnh phúc cá nhân) và cả sự nghiệp để mưu cầu hạnh phúc cho tất cả mọi người; song Hồ Chí Minh không dành riêng cho mình bất cứ điều gì (dù là nhỏ nhất). Và khi đi xa, Người không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người còn căn dặn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Thế giới đã, đang và sẽ có nhiều thay đổi, song hình ảnh người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh cùng với Di sản tinh thần vô giá và chủ nghĩa nhân văn cao thượng của Người với triết lý nhân sinh “tất cả vì con người và giải phóng con người” sẽ mãi trường tồn và tỏa sáng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa

Phó Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các Hội Khoa học  và Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh