GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN VÀ SỨC SỐNG MÃNH LIỆT CỦA TƯ TƯỞNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

56

Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, được bắt đầu từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong thời đại ngày nay, đã đang có nhiều biến đổi to lớn và phức tạp (toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ, cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế thị trường, cuộc đấu tranh vì lợi ích của các quốc gia dân tộc, những vấn đề toàn cầu diễn ra ngày càng nghiêm trọng v.v…), song tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh vẫn luôn tỏa sáng.

PGS. TS. Nguyễn Thế Nghĩa [1]

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tri thức lý luận, phản ánh sinh động và sâu sắc bản chất và những quy luật vận động, phát triển của nhân loại và thực tiẽn cách mạng Việt Nam trong suốt thế kỷ XX. Trong đó, tư tưởng đổi mới sáng tạo là “linh hồn” và “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng và cả cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Người. Chính tư tưởng đổi mới sáng tạo này đã và đang khơi nguồn, nuôi dưỡng, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi với dân tộc Việt Nam và loài người tiến bộ.

Một là, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh thể hiện trước hết ở việc lựa chọn cach thức và phương pháp đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

Đầu thế kỷ XX, sống trong cảnh “nước mất nhà tan”, Hồ Chí Minh đã sớm có lòng yêu nước thương dân và tinh thần dân tộc. Từ đó, Người nuôi dưỡng và rèn luyện “ham muốn tột bậc” là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc và ai cũng được học hành. Và từ “ham muốn tột bậc” đó, Hồ Chí Minh quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, không phải theo “lối truyền thống”. Người đã không nghe theo những lời khuyên (không phù hợp hoặc không đúng…) của những người đi trước, dù đó là những bậc thầy, bậc cha chú…[2] (Đây chính là sự từ bỏ cái lỗi thời lạc hậu để đi tìm ra cái tiến bộ, đoạn tuyệt cái sai để đi tìm cái đúng). Từ quyết định đó, Hồ Chí Minh đã chọn nước Pháp tư bản thực dân, nơi đang có sự phát triển mạnh, nhưng đang tích tụ và bùng nổ những mâu thuẫn gay gắt trong phát triển để khám phá, nghiên cứu… Đồng thời, Người cũng chọn cho mình cách riêng để tìm ra con đường cứu nước là: “nhập cuộc vào thực tiễn xã hội và dấn thân vào tranh đấu, phải cảm nhận trực tiếp đời sống của người lao khổ, thấu hiểu họ, học tập họ và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng họ”[3]. Với con đường và cách làm đó, đến năm 1920, Hồ Chí Minh đã trở thành Người cộng sản Việt Nam đầu tiên, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp; và đặc biệt là tìm ra con đường cứu nước trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Như vậy, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh xuất phát từ việc theo đuổi mục đích độc lập dân tộc, tự do cho đồng bào mà suy ngẫm sâu xa vấn đề dân chủ để đi đến độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Hai là, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong quan niệm của Người về chủ nghĩa Mác – Lênin.

Là Người mácxít, Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin không theo lối “tầm chương trích cú”, mà bằng con đường trải nghiệm thực tiễn cuộc sống (vừa “vô sản hóa” vừa “tri thức hóa”) để thấu hiểu, đồng cảm với nhu cầu, khát vọng của quần chúng lao động; và trên cơ sở đó, chắt lọc, nắm bắt được bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin. Người nói: “Học chủ nghĩa Mác – Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình…”[4]; “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”[5]. Người nhấn mạnh: “… Hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc; bất kỳ việc to, việc nhỏ cũng nhằm mục đích ấy; đó là chủ nghĩa Mác – Lênin”[6].

Hồ Chí Minh nhìn nhận chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là học thuyết khoa học, chính trị, cách mạng, mà còn là tinh hoa văn hóa nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo hướng tới giải phóng con người, là văn hóa ở tầng sâu nhất của hệ thống giá trị trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại. Chính vì vậy, Người đã đặt chủ nghĩa Mác – Lênin trong dòng chảy di sản văn hóa nhân loại và tìm thấy mẫu số chung giữa Mác, Ăngghen, Lênin với Phật Thích Ca, Khổng Tử, Giêsu… Đồng thời, Người rất trân trọng Gandhi, Tôn Trung Sơn và không quên đưa những lời bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) vào lời mở đầu Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam (1945). Nhiều học giả nước ngoài đều có chung nhận xét: “Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã chứa đựng triết học duy vật của Mác, tinh thần cách mạng triệt để của Lênin, đức từ bi của Phật, lòng bác ái của Gieessu, cái vô ngã của Gandhi nhưng lại rất Việt Nam, rất Hồ Chí Minh, không phải bản sao của bất cứ một vĩ nhân nào…”[7].

Ba là, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng, nhân văn luôn gắn với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, bôn ba khắp năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh luôn phải đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn, tình huống phức tạp và nguy hiểm… Song, nhờ rèn luyện được bản lĩnh chính trị, tư tưởng đổi mới sáng tạo mang tính khoa học, cách mạng, nhân văn gắn với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nên Người vượt qua tất cả, đã cùng với Đảng và nhân dân ta làm nên những thắng lợi vĩ đại không chỉ bằng sức mạnh ý chí, lòng dũng cảm và đức hy sinh, mà còn bằng trí tuệ khoa học, chiến lược đúng đắn, sách lược và phương pháp sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt, biết phân hóa kẻ địch và thu hút, tập hợp được lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Tư tưởng đổi mới sáng tạo, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ phản ánh khái quát phương châm sống và hành động của Người gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, mà còn thể hiện đặc trưng nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh: Bình tĩnh và sáng suốt, ung dung và thanh thản, làm chủ mọi hoàn cảnh, mọi tình thế nhằm giải quyết công việc nhanh nhất, có hiệu quả nhất để phục vụ nhân dân được nhiều nhất và tốt nhất. Đó là bản lĩnh và phong cách của một nhà hiền triết phương Đông, một lãnh tụ chính trị thiên tài, dày dặn kinh nghiệm, dồi dào tri thức, có niềm tin mãnh liệt vào sự nghiệp cách mạng và sức mạnh vô địch của nhân dân.

Tư tưởng đổi mới sáng tạo mang tính khoa học, cách mạng, nhân văn gắn liền với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động, phong phú, đầy thuyết phục và rất có hiệu quả trong toàn bộ sự nghiệp của Người gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, chúng thể hiện nổi bật trong các sự kiện cách mạng: Thành lập Đảng và chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám; Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ; Kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954); Kháng chiến chống Mỹ (1955 – 1975) và nghệ thuật ngoại giao…

Đặc biệt là, trước khi đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta bản Di chúc lịch sử. Có thể xem đây là bản thiết kế tư tưởng, lý luận cho công cuộc đổi mới đất nước sau chiến tranh. Trong đó, Người chú trọng các nội dung: Đổi mới Đảng để đổi mới xã hội; Phát triển kinh tế, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hiện đại; Chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là người có công với cách mạng và cả những nạn nhân của chế độ cũ; Xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ, thực hiện đoàn kết và hòa hợp dân tộc; Giáo dục và đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau; Tăng cường đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, trong đó chú trọng đoàn kết trong phong trào cộng sản; Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh[8].

Như vậy, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh là nhất quán, toàn diện, sâu sắc và triệt để. Nó xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người và bao quát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (mà giá trị cốt lõi là tư tưởng đổi mới sáng tạo) đã và đang là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, làm cho đất nước giàu mạnh, phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc.

———————————–

[1] Phó giáo sư Tiến sĩ Triết học, Ủy viên Hội đồng khoa học TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh.

[2] Xem: Đặng Xuân Kỳ, Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990, tr. 10 – 12.

[3] Nguyễn Thế Nghĩa, Tuyển tập Chính trị học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 449.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 95.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 208.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 290.

[7] Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1992, tr. 61.

[8] Xem: Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 605 – 625.