Kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh: CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH – DI SẢN TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI

1012

(LHH-TPHCM) – Suốt cuộc đời hoạt động oanh liệt “đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”, Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Khi đi xa, Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại tiến bộ Di sản tinh thần vô giá, mà trong đó chứa đựng chủ nghĩa nhân văn sâu sắc – tất cả vì con người và giải phóng con người.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là kết tinh những giá trị của chủ nghĩa nhân đạo với tinh hoa văn hóa Đông – Tây mà cội nguồn của nó là giá trị truyền thống nhân ái Việt Nam. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn ấy là sự tôn vinh giá trị con người, tình yêu thương và quý trọng con người gắn với lòng yêu nước nồng nàn và thương dân sâu sắc. Mục tiêu của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công để đi tới một xã hội tốt đẹp bằng con đường “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và phương pháp hành động cách mạng.

Sinh ra ở vùng quê vốn giàu lòng yêu nước và hiếu học, được nuôi dưỡng bởi một dân tộc có truyền thống mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, có nền văn hiến lâu đời với khát vọng hòa bình, độc lập tự do; song lại phải sống trong cảnh lầm than dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Trong bối cảnh ấy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra nỗi nhục của kiếp đời nô lệ, nỗi đau của người dân mất nước và Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước để “đuổi thực dân, giải phóng đồng bào”. Mục tiêu đó ngày càng lớn lên ở Người và trở thành “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, Hồ Chí Minh đã sớm đến với Nho học, tư tưởng “nhân – trí – dũng” đã trở thành một trong những cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn của Người. Song, khác với mọi nhà Nho đương thời, Hồ Chí Minh đã sớm chế ngự được tính thiển cận của Nho giáo trong lợi ích dân tộc hẹp hòi để đi tới tình hữu ái giai cấp và giá trị nhân văn phổ quát.

Thấu hiểu giáo lý của đạo Phật với tư tưởng “từ bi hỉ xả, cứu nhân độ thế” và ước mơ cứu vớt chúng sinh của Chúa Giêsu; song với Hồ Chí Minh, tư tưởng và ước mơ đó chỉ được coi là hữu ích khi chúng được sử dụng để giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc ra khỏi kiếp đời nô lệ. Suốt 30 năm sống.

làm việc, học tập, hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị đích thực của văn hóa phương Tây với tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái và Người luôn sử dụng giá trị đó để đấu tranh cho quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ.

Thấy rõ giá trị của văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những hạn chế của quyền con người trong chủ nghĩa tư bản và chỉ ra rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…”.

Như vậy, từ giá trị nhân văn trong nền văn hóa Đông – Tây và truyền thống nhân ái Việt Nam, với trí tuệ uyên bác và lòng yêu nước, thương dân vô hạn, Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin không phải theo lối “tầm chương trích cú”, mà bằng cách chắt lọc và chưng cất những tinh hoa nhất trong thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật cùng nhân sinh quan cách mạng để sáng tạo ra hệ giá trị nhân văn cách mạng vì con người và giải phóng con người.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh vạch ra rằng, con người không thể mưu cầu hạnh phúc cho mình bằng cách thụ động, lánh đời, “há miệng chờ sung”; hay chỉ nghiên cứu, lý giải một cách trừu tượng, hoa mỹ về ước mơ, hạnh phúc; mà phải bắt tay vào hành động “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”; rằng, chỉ có bằng hành động thực tiễn cách mạng, con người mới cải tạo được thế giới, đồng thời cải tạo chính mình, do đó, mới xây dựng được cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc.

Biến tư tưởng nhân văn thành hành động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiến hành cuộc đấu tranh không mệt mỏi vì độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho đồng bào. Người đã trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; và trong kế hoạch kiến quốc đầu tiên của nước Việt Nam mới, Người đã đề ra nhiệm vụ cho Chính phủ là: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Đồng thời, Người yêu cầu tất cả các cơ quan Đảng và Nhà nước cùng tất cả cán bộ, đảng viên phải tuân thủ nguyên tắc: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh…”.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là hiện thân của khát vọng hòa bình Việt Nam, khi Người đã tận dụng tối đa mọi cơ hội, làm hết sức mình để tránh cuộc chiến tranh cho hai dân tộc Việt – Pháp, nhưng kẻ thù đã buộc chúng ta phải cầm súng để bảo vệ Tổ quốc, thì chúng ta quyết không sợ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với ý chí đó, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình trên đất nước ta.

Điều đặc biệt và nổi bật trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng và hành vi tất cả vì con người, vì dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Ngay khi đất nước có chiến tranh, Người kiên quyết thực hiện quyết sách “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” để bồi dưỡng sức dân, tăng cường năng lực nội sinh của dân tộc. Trong quan hệ quốc tế, Người phân biệt rõ, nhân loại tiến bộ với bọn thực dân đế quốc; nhân dân tiến bộ Mỹ là bạn của nhân dân Việt Nam, với những thế lực hiếu chiến Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta. Vì vậy, mặc dù có chiến tranh nhưng Người vẫn thường gửi thư thăm hỏi và chúc mừng nhân dân Mỹ nhân dịp năm mới: “Nhân dân Việt Nam rất quý trọng tình hữu nghị với nhân dân Mỹ vĩ đại đang tiếp tục truyền thống của Hoa Thịnh Đốn và Lin Côn đấu tranh cho độc lập và dân chủ”. Đồng thời, Người thông cảm sâu sắc và chia sẻ với những mất mát mà các gia đình Mỹ phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh do chính quyền Mỹ gây ra ở Việt Nam.

Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động của hòa bình, nhân đạo, tự do, dân chủ, nhân ái, khoan dung và văn minh, tiến bộ dành cho dân tộc Việt Nam và nhân loại. Vì vậy, khi “nước mất, nhà tan”, Người đã chấp nhận cuộc sống xa quê hương, đất nước với muôn vàn gian khổ hiểm nguy, đi khắp năm châu bốn biển để tìm con đường đi cho cả dân tộc. Và, suốt cả cuộc đời, Người đã dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại tiến bộ và đồng chí, đồng bào. Khi ra đi, Người đã không quên, căn dặn Đảng ta phải chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và xây dựng lại đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Đặc biệt là, Người “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Đúng như Phạm Văn Đồng đã viết: “Bác Hồ là “muôn vàn tình thương yêu”, đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai, và sắp xếp cho mỗi người vị trí chiến đấu cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt”.

Dành cả cuộc đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và nhân loại tiến bộ; dành cả sự nghiệp để mưu cầu hạnh phúc cho tất cả mọi người; song Hồ Chí Minh không dành riêng cho mình bất cứ điều gì (dù là nhỏ nhất). Trước khi đi xa, Người còn căn dặn “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Thế giới đã, đang và sẽ có nhiều biến đổi, song Di sản tinh thần vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh tất cả vì con người và giải phóng con người sẽ mãi trường tồn trong sự nghiệp đổi mới và trong lòng nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA

(Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật TP.HCM)